Theo quy định tại Điều 663 Bộ luật Dân sự năm 2005 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2006 đến ngày 31/12/2016) thì vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung (Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 1/1/2017 không còn quy định hình thức di chúc chung vợ chồng).
Theo Điều 664 Bộ luật Dân sự năm 2005 nói trên về việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ, chồng thì vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào; Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình.
Căn cứ tại Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về Điều khoản chuyển tiếp
- Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực thì việc áp dụng pháp luật được quy định như sau:
- a) Giao dịch dân sự chưa được thực hiện mà có nội dung, hình thức khác với quy định của Bộ luật này thì chủ thể giao dịch tiếp tục thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11, trừ trường hợp các bên của giao dịch dân sự có thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung nội dung, hình thức của giao dịch để phù hợp với Bộ luật này và để áp dụng quy định của Bộ luật này.
Giao dịch dân sự đang được thực hiện mà có nội dung, hình thức khác với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11;
- b) Giao dịch dân sự chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của Bộ luật này;
Tại khoản 1, 2 Điều 640 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định người lập di chúc là chủ thể có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc. Cụ thể:
“Điều 640. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc
- Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào.
- Trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.”.
Đối chiếu các quy định trên thì chỉ người có tài sản mới có thể để lại thừa kế đối với phần tài sản thuộc sở hữu của mình cho người khác sau khi chết, thông qua di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Đồng thời, chỉ người lập di chúc mới có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc họ đã lập.
Theo quy định nêu trên, Trường hợp vợ chồng cùng lập chung một di chúc thì phần di sản của người vợ hoặc chồng đã chết để lại vẫn được thực hiện theo di chúc (trừ trường hợp phần di chúc đó được xác định không hợp pháp), người vợ không có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc mà người chồng đã lập. Người vợ chỉ được sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đối với phần tài sản của mình mà không có quyền thay đổi phần di chúc đối với tài sản của người chồng.
Về hiệu lực của di chúc thì di chúc chung của vợ, chồng nếu không có ghi rõ “có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết” thì phần di sản của người vợ hoặc chồng đã chết để lại được chia thừa kế theo di chúc (chia cho người hưởng theo di chúc theo quy định hiện hành).
Trường hợp di chúc chung của vợ, chồng nếu có ghi rõ “có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết” thì di sản của người vợ hoặc chồng đã chết để lại chỉ được chia thừa kế theo di chúc (chia cho người hưởng theo di chúc) sau người còn lại chết. Từ khi có một người chết trước cho đến khi người còn lại chết thì ai đang quản lý, sử dụng phần di sản của người chết trước thì người đó được tiếp tục quản lý, sử dụng, trừ trường hợp những người thừa kế có thỏa thuận khác.
Vô Phương